Báo cáo Chuyên đề môn Ngữ văn Lớp 7 - Vận dụng linh hoạt một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nhằm phát huy phẩm chất, năng lực học sinh trong dạy học môn Ngữ văn ở trường THCS - Năm học 2022-2023
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo Chuyên đề môn Ngữ văn Lớp 7 - Vận dụng linh hoạt một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nhằm phát huy phẩm chất, năng lực học sinh trong dạy học môn Ngữ văn ở trường THCS - Năm học 2022-2023", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
bao_cao_chuyen_de_mon_ngu_van_lop_7_van_dung_linh_hoat_mot_s.doc
Nội dung tài liệu: Báo cáo Chuyên đề môn Ngữ văn Lớp 7 - Vận dụng linh hoạt một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nhằm phát huy phẩm chất, năng lực học sinh trong dạy học môn Ngữ văn ở trường THCS - Năm học 2022-2023
- Các năng lực,được hình thành, phát triển trong môn Ngữ văn : Năng lực cần phát triển: * Năng lực chung: – Năng lực tư duy. – Năng lực tưởng tượng và sáng tạo. – Năng lực tự học/ tự giải quyết vấn đề. * Năng lực đặc thù. – Năng lực đọc hiểu – Năng lực cảm thụ. – Năng lực thẩm mỹ. – Năng lực diễn đạt, sử dụng ngôn ngữ. Các phẩm chất được hình thành, phát triển trong môn Ngữ văn: - Yêu nước - Nhân ái - Chăm chỉ - Trung thực - Trách nhiệm 2. Cơ sở thực tiễn: Dạy học theo định hướng phát triển phẩm chất năng lực là một phương pháp dạy tích cực lấy học sinh làm trung tâm. Từ thực tế giảng dạy, chúng tôi nhận thấy sự sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học với việc sử dụng linh hoạt các kĩ thuật dạy học sẽ phát huy tính tích cực, tự học của học sinh .Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức. Việc rèn luyện kỹ năng chưa được quan tâm. Hoạt động kiểm tra, đánh giá chưa thực sự khách quan, chính xác (chủ yếu tái hiện kiến thức), chú trọng đánh giá cuối kì chưa chú trọng đánh giá quá trình. Tất cả những điều đó dẫn tới học sinh học còn thụ động, lúng túng khi giải quyết các tình huống trong thực tiễn. Điều đó thể hiện ở những tồn tại sau: - Dạy học tích hợp đã được chú trọng, tuy nhiên, dạy học tích hợp vẫn mang tính miễn cưỡng, nội dung tích hợp vào bài học như bảo vệ môi trường, giáo dục kỹ năng sống một cách cứng nhắc. Chưa làm cho học sinh huy động kiến thức, kỹ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực để giải quyết các nhiệm vụ học tập. Việc tích hợp nội môn và tích hợp liên môn chưa thực sự hiệu quả, chính vì vậy chưa giúp học sinh hình thành kiến thức, kĩ năng mới và tất nhiên các năng lực của học sinh chưa được phát triển. - Việc vận dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực còn mang tính hình thức. Phương pháp thảo luận nhóm được tổ chức ở các lớp thực hiện chương trình sgk hiện hành nhưng chủ yếu vẫn dựa vào một vài cá nhân học sinh tích cực tham gia, các thành viên còn lại còn dựa dẫm, ỉ lại chưa thực sự chủ động. Mục đích của thảo luận nhóm chưa đạt được tính dân chủ, mọi cá nhân được tự do bày tỏ quan điểm, thói quen bình đẳng, biết đón nhận quan điểm bất đồng để hình thành quan điểm cá nhân. - Một số học sinh chưa có phương pháp học tập phù hợp, chưa tích cực trong việc tìm tòi nghiên cứu bài học nên chưa đảm bảo các năng lực. III. Biện pháp tiến hành 3
- 1.Đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực. a. Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Trong phương pháp dạy học tích cực, người học - đối tượng của hoạt động "dạy", đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp "làm ra" kiến thức, kĩ năng đó, không rập theo những khuôn mâu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho từng học sinh biết hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng. b. Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học. Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học. Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh - với sự bùng nổ thông tin, khoa học, kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão - thì không thể nhồi nhét vào đầu óc học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho học sinh phương pháp học ngay từ bậc Tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng phải được chú trọng. Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong qúa trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên. c. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác. Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập. Áp dụng phương pháp tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hóa này càng lớn. Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh. Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người 4
- học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của người thầy giáo. Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp hoặc trường. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác trong nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại; tính cách năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm cho các thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội. Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia, liên quốc gia; năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà nhà trường phải chuẩn bị cho học sinh. d. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò. Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. 2. Một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực hiện nay. a. Phương pháp thảo luận nhóm Trong số các phương pháp dạy học tích cực môn Ngữ văn, phương pháp thảo luận nhóm thường được giáo viên sử dụng, bởi nó tạo ra sự sôi nổi trong tiết học và giúp các em học sinh có được khả năng tư duy, tính tự giác, trách nhiệm và năng lực giao tiếp. Phương pháp thảo luận nhóm đặc biệt mang lại hiệu quả trong các tiết thực hành, làm bài tập ngữ văn. Để thực hiện, giáo viên cần chia lớp thành các nhóm nhỏ, đưa ra vấn đề, quy định thời gian để các nhóm thảo luận và trình bày kết quả của nhóm trước lớp. b. Phương pháp đóng vai Đóng vai là phương pháp dạy học mà ở đó giáo viên sẽ cho học sinh thực hành về cách ứng xử xảy ra trong một tình huống nào đó. Với phương pháp này, học sinh sẽ có những suy nghĩ sâu sắc khi tập trung vào một vấn đề cụ thể. Tuy nhiên, phần trọng tâm của phương pháp đóng vai nằm ở quá trình thảo luận sau phần diễn đóng vai. c. Phương pháp tình huống có vấn đề Đây là phương pháp dạy học tích cực môn Ngữ văn giúp hình thành được khả năng tư duy, giải quyết vấn đề cho các em học sinh. Bởi giáo viên sẽ đưa ra các vấn đề có liên quan đến nội dung của bài học, còn học sinh sẽ phải phát hiện ra vấn đề, từ đó đưa ra các đề xuất và lập nên kế hoạch để giải quyết vấn đề đó. Trong trường hợp, nội dung bài giảng có nhiều vấn đề cần giải quyết, giáo viên có thể chia lớp thành các nhóm nhỏ. Và mỗi một nhóm sẽ chịu trách nhiệm giải quyết một vấn đề. Cuối cùng là cả lớp sẽ cùng thảo luận và giáo viên sẽ tổng hợp đánh giá để đưa ra kết quả phù hợp nhất. d. Phương pháp kích thích tư duy: Là phương pháp giúp tăng được sự chú ý, khả năng tìm tòi, khám phá, phát triển tư duy, đánh giá cho học sinh. Đặc biệt hiện nay rất được nhiều giáo viên áp dụng vào dạy học tích cực. 5
- * Ngoài các phương pháp dạy học tích cực còn có các kĩ thuật dạy học như sau: a. Kỹ thuật khăn trải bàn - Là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và nhóm nhằm: + Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực + Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân HS + Phát triển mô hình có sự tương tác giữa HS với HS * Cách tiến hành kĩ thuật khăn trải bàn: Chia HS thành nhóm, phát mỗi nhóm một tờ giấy A0. Mỗi người ngồi vào vị trí như hình vẽ trên tấm khăn trải bàn. Mỗi cá nhân độc lập suy nghĩ trả lời câu hỏi trong vài phút, viết vào phần giấy của mình trên tờ A0. - Cả nhóm chia sẻ, thống nhất ý kiến và viết vào phần chính giữa của tờ A0. Trên cơ sở ý kiến của mỗi cá nhân, học sinh thảo luận nhóm, thống nhất ý kiến và viết vào phần giữa của tờ giấy A0 “Khăn trải bàn” Để sử dụng kĩ thuật này có hiệu qủa, trước tiên, giáo viên phải xác định rõ mục tiêu và kết qủa cuối cùng của hoạt động này là gì? Sau quá trình hoạt động sẽ hình thành cho học sinh những năng lực, phẩm chất nào? Do đó giáo viên phải đề ra cho mình những định hướng cần thực hiện trong suốt quá trình tổ chức hoạt động. Tránh trường hợp vận dụng kĩ thuật một cách hình thức, đối phó. Xác định và đảm bảo truyền thụ đầy đủ những kiến thức trọng tâm của tiết học. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải đảm bảo đẩy đủ những nội dung cơ bản, trọng tâm của tiết học ở môn Giáo dục công dân. * LƯU Ý: Câu hỏi thảo luận thường là câu hỏi mở hoặc có độ khó. 6
- Trường hợp số HS một nhóm quá đông không đủ chỗ trên “khăn trải bàn”, HS có thể dùng giấy nhỏ ghi ý kiến cá nhân, sau đó gắn vào phần xung quanh “khăn trải bàn”. Trong quá trình thảo luận, đính kèm những ý kiến thống nhất vào giữa “Khăn trải bàn”. Những ý kiến trùng nhau có thể đính chồng lên nhau. Những ý kiến thống nhất, cá nhân có quyền bảo lưu và được giữ lại ở phần xung quanh của “khăn trải bàn”. Ví dụ khi dạy văn bản 1 lớp 7 : “ Bầy chim chìa vôi”, giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh tìm hiểu về nhân vật Mon và nhân vật Mên qua những gợi ý: – Lời nói ? – Cử chỉ, hành động? – Tâm trạng, suy nghĩ? – Nhận xét về Mon, Mên? Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện kĩ thuật khăn trải bàn. Giáo viên tiến hành cho học sinh chia nhóm để thảo luận. Giáo viên phát cho mỗi nhóm một tờ giấy A0, trên tờ giấy A0 GV chia thành các phần xung quanh và phần chính giữa. b. Kỹ thuật hỏi và và trả lời Trong phương pháp dạy học tích cực môn ngữ văn, đây là kỹ thuật dạy học giúp học sinh củng cố và nhớ sâu các kiến thức đã được học thông qua kỹ năng đặt câu hỏi và trả lời các câu hỏi. c. Kỹ thuật trình bày 1 phút Với kỹ thuật này học sinh sẽ có cơ hội để tổng kết lại toàn bộ kiến thức đã được học. Đồng thời đưa ra các câu hỏi về những vấn đề vẫn còn băn khoăn,vẫn còn chưa hiểu thông qua bài trình bày ngắn gọn ở trên Ví dụ : Khi dạy văn bàn lớp 9: “Sang thu” (Hữu Thỉnh), sau khi tổng kết, giáo viên đặt câu hỏi: Những điều em nhận biết và làm được? Những điều em còn băn khoăn ở bài học này là gì? d.Lồng ghép trò chơi Lồng ghép trò chơi trong dạy ngữ văn được áp dụng cho môn tiếng Việt, đọc văn và làm văn. Bằng cách lồng ghép trò chơi sẽ giúp tăng sự hứng thú cho các tiết học và tính chủ động, tích cực tiếp nhận kiến thức của học sinh. Trò chơi sẽ đại diện cho một đơn vị kiến thức trong tiết học, giáo viên sử dụng trò chơi để triển khai các bước của một bài giảng. Nếu là tiết ôn tập hoặc tiết khái quát, giáo viên có thể cho cả lớp chơi một trò chơi lớn. Có rất nhiều trò chơi có thể áp dụng trong dạy ngữ văn như trò chơi ô chữ, trò chơi hùng biện, trò chơi ai nhanh tay, nhanh trí . VD: khi dạy bài “Thực hành tiếng Việt ( Số từ) sách Ngữ văn 7, ta có thể cho HS chơi trò chơi “ Đuổi hình bắt chữ”, mỗi hình ảnh, học sinh đặt câu hoặc tìm những câu ca dao, tục ngữ có sử dụng số từ. e. Kĩ thuật dạy học “Sử dụng sơ đồ tư duy”. Kĩ thuật dạy học sử dụng sơ đồ tư duy là một trong những kĩ thuật dạy học tích cực mà chúng tôi vẫn thường xuyên lựa chọn trong các tiết học. Sử dụng sơ đồ tư duy giúp học sinh phát triển tư duy sáng tạo cũng như dễ dàng lưu giữ những nội dung kiến thức đã được học trên lớp. 7
- Khi sử dụng sơ đồ tư duy sẽ làm cho không khí tiết học nhẹ nhàng, thoải mái, tự nhiên hơn, các em tự sáng tạo trong cách vẽ, cách hiểu và cách trình bày. Kết hợp với sự khéo léo trong phát triển năng lực thẫm mĩ sẽ tạo cho các em có sáng tạo mới. Sử dụng sơ đồ tư duy để đạt kết quả tốt thì khi giảng dạy giáo viên cần lưu ý với học sinh một số vấn đề sau: - Viết tên chủ đề/ ý tưởng chính ở trung tâm. - Từ chủ đề/ ý tưởng chính ở trung tâm, vẽ các nhánh chính, trên mỗi nhánh chính viết một nội dung lớn của chủ đề hoặc các ý tưởng có liên quan xoay quanh ý tưởng trung tâm nói trên. - Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung thuộc nhánh chính đó. - Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo. - Các đường dẫn đến các nội dung cần tìm hiểu của vấn đề nên vẽ bằng các màu khác nhau. - Trong mỗi nội dung nên viết cùng một màu mực và vẽ cùng một biểu tượng để khi học sinh ôn bài sẽ dễ dàng nhớ kiến thức dựa vào biểu tượng mình vẽ. Trong quá trình học sinh hoàn thiện sản phẩm của mình thầy, cô giáo phải quan sát để hỗ trợ khi học sinh khi các nhóm cần sự giúp đỡ, hỗ trợ. Ví dụ: Sau khi học xong bài “ Câu ghép” tiếp theo -Tiếng Việt lớp 8, học sinh vẽ được sơ được tư duy để nắm kiến thức của bài về cách nối các vế trong câu ghép. 8
- Hay khi học xong bài “ Thực hành tiếng Việt ” ( Số từ) môn Ngữ Văn lớp 7 trang 64, 65 học sinh vẽ được sơ được tư duy để nắm kiến thức của bài về số từ SƠ ĐỒ TƯ DUY * Lưu ý: Để thực hiện tốt kĩ thuật này ở tiết học trước liền kề giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị thật chu đáo về nội dung kiến thức cũng như các dụng cụ để thực hiện kĩ thuật sơ đồ tư duy (giấy, bút, màu ) cho tiết học sau. Sau khi học sinh đã có sản phẩm giáo viên cho học trình bày sản phẩm của nhóm mình. Sau khi học sinh trình bày sản phẩm của nhóm mình, giáo viên cho các nhóm khác nhận xét và giáo viên sẽ là người chốt lại kiến thức cuối cùng. Nếu như nhóm học sinh nào làm tốt giáo viên tiến hành tuyên dương, nhóm làm chưa tốt khuyến khích học sinh sẽ làm tốt hơn vào lần sau. Với việc thực hiện kĩ thuật sơ đồ tư duy trong dạy học làm tăng khả năng sáng tạo và năng suất hoạt của học sinh, kĩ thuật này là một công cụ tuyệt vời để học sinh tạo ra nhiều ý tưởng xác định mối quan hệ giữa các dữ liệu và thông tin khác nhau cải thiện hiệu quả bộ nhớ và khả năng ghi nhớ. Thông qua kĩ thuật sơ đồ tư duy trong phần hình thành kiến thức giúp học sinh thể hiện năng lực thẩm mĩ (quá trình vẽ, trang trí); phát triển năng lực ngôn ngữ (thảo luận, học sinh trình bày sản phẩm); phát triển năng lực tính toán (tính toán để có thể vẽ được sơ đồ một cách hợp lý nhất). Đồng thời giúp các em phát triển các phẩm chất: Chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm. Vận dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực môn ngữ văn vào công tác giảng dạy tại các trường hiện nay có ý nghĩa rất lớn. Bởi nó không chỉ tăng được sự hứng thú, niềm đam mê của học sinh mà còn giúp các em phát triển năng lực, khả năng tư duy và sáng tạo. 9
- IV. Áp dụng chuyên đề vào giảng dạy phần thực hành tiếng Việt môn Ngữ văn lớp 7 Giáo án minh họa: Tiết 27: THỰC HÀNH TIẾNG VIỆT I. MỤC TIÊU 1. Năng lực: a. Năng lực chung: - Năng lực tự chủ, tự học: tự ôn tập kiến thức tiếng Việt đã học trước khi vào lớp. - Năng lực giải quyết vấn đề: vận dụng kiến thức để giải quyết các bài tập cụ thể - Năng lực giao tiếp: học sinh trình bày bài làm của mình, chia sẻ kinh nghiệm khi làm bài, góp ý cho các bạn trong lớp. b. Năng lực riêng biệt: - HS nhận biết được đặc điểm của số từ và hiểu được chức năng của số từ để sử dụng đúng và hiệu quả trong các hoạt động đọc, viết, nói và nghe. 2. Phẩm chất: Từ việc làm bài, học sinh được rèn luyện sự kiên trì, chăm chỉ,trách nhiệm, tinh thần hợp tác, đoàn kết với các bạn trong lớp để giải quyết vấn đề. II. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU 1. Giáo viên - KHBD, SGK, SGV, tài liệu tham khảo. - Máy chiếu, máy tính. - Giấy A1 hoặc bảng phụ để HS làm việc nhóm. - Phiếu học tập. 2. Học sinh - SGK, Vở ghi, đồ dùng học tập, - Chuẩn bị bài theo câu hỏi trong SGK. III. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY - HỌC 1. HOẠT ĐỘNG 1: MỞ ĐẦU( a.Mục tiêu: Tạo hứng thú cho HS, thu hút HS sẵn sàng HS thực hiện nhiệm vụ học tập học tập của mình từ đó khắc sâu kiến thức nội dung bài học về số từ. b. Nội dung: HS làm việc cá nhân để nhận biết các từ chỉ số lượng trong bài hát. c. Sản phẩm: Câu trả lời của HS và phần giới thiệu của GV d. Tổ chức thực hiện: Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập - GV chiếu bài hát “ Một con vịt” tác giả Kim Duyên; yêu cầu lớp phó văn nghệ bắt nhịp cho cả lớp hát: 10
- - GV yêu cầu HS tìm các từ chỉ số lượng trong bài hát trên: - HS thực hiện nhiệm vụ. Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập - HS nghe GV nêu yêu cầu và suy nghĩ trả lời Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận - GV mời HS trả lời câu hỏi. Đáp án: Các từ chỉ số lượng một, hai. Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ - GV nhận xét, khen ngợi các HS đã trả lời đúng. - Từ chia sẻ của HS, GV dẫn dắt vào bài học mới:Vậy Số từ là gì, số từ có chức năng như thế nào thì bài học hôm nay sẽ giúp các em hiểu hơn về ý nghĩa của việc sử dụng số từ trong văn bản. 2. HOẠT ĐỘNG 2: HÌNH THÀNH KIẾN THỨC a. Mục tiêu: HS nhận biết được đặc điểm của số từ và hiểu được chức năng của số từ để sử dụng đúng và hiệu quả trong các hoạt động đọc, viết, nói và nghe. b. Nội dung:GV gợi dẫn, yêu cầu HS thực hiện các nhiệm vụ học tập để từ đó nắm được những kiến thức cơ bản về số từ. c. Sản phẩm:Kết quả làm việc của HS thông qua các hoạt động học tập làm việc cá nhân, làm việc nhóm. d. Tổ chức thực hiện: HOẠT ĐỘNG CỦA GV - HS Nội dung cần đạt Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập I. Hình thành kiến thức - GVcho HS đọc và tìm hiểu các ví sau: 1. Ví dụ/ sgk 1) Tôi đoán được hai loại hoa: hoa mồng gà và 2. Nhận xét hoa hướng dương. - Số từ 2) Chúng tôi gặp nhau và nói dăm ba câu (1): hai chuyện -> đứng trước danh từ, bổ sung ý 3) Tôi ngồi bàn thứ nhất nghĩa cho danh từ về mặt số lượng ( - Tìm số từ trong các ví dụ trên chính xác) - Xác định số từ chỉ số lượng xác định và số từ (2): dăm ba chỉ số lượng ước chừng -> đứng trước danh từ, bổ sung ý - Xác định vị trí của số từ khi biểu thị nghĩa cho danh từ về mặt số lượng ( 11
- (?)Từ “đôi” trong câu” Ba đôi đũa ấy rất đẹp.” ước chừng) có phải là số từ không ? Tại sao ? (3) nhất -> từ “ nhất” kết hợp với từ “ thứ” ( - Từ “đôi” không phải là số từ . Vì nó mang ý thứ nhất”đứng sau danh từ “ bàn” nghĩa đơn vị và đứng vị trí của danh từ chỉ chỉ chỉ số thứ tự của sự vật đơn vị => số từ . “Một đôi” cũng không phải số từ ghép như (4) “ đôi”-> không phải là số từ mà một trăm một nghìn Vì sau từ đôi không thể là danh từ chỉ đơn vị gắn với ý nghĩa sử dụng với danh từ chỉ đơn vị . số lượng Vd: Một trăm con trâu ( Có thể nói được ) Một đôi con trâu ( Không thể nói được)) - Từ đó em hiểu: Số từ là gì? Có mấy loại số 3. Kết luận từ? - Số từ là những từ chỉ số lượng hoặc Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập thứ tự của sự vật. - HS nghe câu hỏi, chỉ ra số từ trong câu, kết - Phân loại: luận về các đặc điểm của số từ + Số từ chỉ số lượng gồm các số từ Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo chỉ số lượng xác định (một, hai, luận hoạt động và thảo luận ba...) hoặc số từ chỉ số lượng ước - GV mời 2 – 3 HS trình bày kết quả trước lớp, chừng (vài, dăm, mươi, dăm bảy....) yêu cầu cả lớp nghe và nhận xét, góp ý, bổ sung. + Số từ chỉ thứ tự thường kết hợp Dự kiến sản phẩm: với các từ thứ, hạng, loại, số đứng - Các số từ: hai, dăm ba, thứ nhất sau danh từ trung tâm, thể hiện thứ - Số từ chỉ số lượng xác định: hai tự của sự vật được nêu ở danh từ - Số từ chỉ số lượng ước chừng: dăm ba trung tâm. - Khi biểu thị số lượng sự vật số từ đứng trước + Cần phân biệt số từ với danh từ chỉ danh từ đơn vị gắn với ý nghĩa số lượng như: - Khi biểu thị thứ tự của sự vật số từ đứng sau đôi, chục, tá những danh từ này có danh từ ( thường kết hợp với các từ như thứ, thể kết hợp với số từ ở trước và các hạng, loại, từ ấy, này ở sau( ba, đôi ấy, hai Bước 4: Đánh giá kết quả HS thực hiện chục này ) còn số từ thì không. nhiệm vụ học tập - GV nhận xét, bổ sung, chốt lại kiến thức Ghi lên bảng. - GV cho HS bài tập làm nhanh sau: “Một canh... hai canh...lại ba canh Trần trọc, băn khoăn, giấc chẳng thành Canh bốn canh năm vừa chợp mắt Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh.” -Xác định các loại số từ có trong bài tập trên Dự kiến sản phẩm: + Số từ chỉ số lượng xác định: một, hai, ba, năm +Số từ chỉ thứ tự của sự vật: canh bốn, canh 12
- năm GV lưu ý kiến thức cho HS: Cần phân biệt số từ với danh từ chỉ đơn vị gắn với ý nghĩa số lượng như: đôi, chục, tá những danh từ này có thể kết hợp với số từ ở trước và các từ ấy, này ở sau( ba, đôi ấy, hai chục này ) còn số từ thì không. II. Luyện tập 3.HOẠT ĐỘNG 3: LUYỆN TẬP a) Mục tiêu: Vận dụng kiến thức của bài học vào việc làm bài tập cụ thể. b. Nội dung:GV gợi dẫn, yêu cầu HS thực hiện các bài tập trong SGK để từ đó nắm được những kiến thức cơ bản về số từ. c. Sản phẩm:Kết quả làm việc của HS thông qua các hoạt động học tập làm việc cá nhân, làm việc nhóm. d. Tổ chức thực hiện: Nhiệm vụ 1: Bài tập 1, 2 Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập - GV yêu cầu HS làm việc nhóm Nhóm 1,3: Bài tập 1. Xác định số từ trong các câu a) Buổi chiều ra đồng về, bố thường dẫn tôi ra vườn, hai bố con thi nhau tưới. b) Bố làm cho tôi một bình tưới nhỏ bằng cái thùng đựng sơn rất vừa tay. c) –Cách đây khoảng ba chục mét, hướng này Nhóm 2,4: Bài tập 2. Tìm số từ chỉ số lượng ước chừng trong các câu: a) Bố có thể lặn một hơi dài đến mấy phút b) Tôi còn về vài ngày nữa là khác c) Tôi nghe nói bà về đây một hai hôm rồi đi Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập - Các nhómHS đọc và hoàn thành bài tập Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận - GV mời HS giơ tay nhanh nhất cho mỗi câu để trả lời, yêu cầu cả lớp nghe, nhận xét. Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ - GV Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, chuẩn kiến thức. Đáp án: Bài 1. Số từ trong các câu là a. hai bố con b. một bình tưới c. ba chục mét Bài 2:Số từ chỉ số lượng ước chừng a. mấy phút b. vài ngày c. mộthai hôm Nhiệm vụ 2: Bài tập 3 Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ học tập - GV yêu cầu HS làm việc cá nhân 13

