Báo cáo Chuyên đề môn Vật lý - Tạo hứng thú học tập cho học sinh trong giảng dạy Vật lý ở trường THCS - Năm học 2014-2015 - Lê Đức Năm

doc 10 trang Minh Sáng 09/10/2025 190
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo Chuyên đề môn Vật lý - Tạo hứng thú học tập cho học sinh trong giảng dạy Vật lý ở trường THCS - Năm học 2014-2015 - Lê Đức Năm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docbao_cao_chuyen_de_mon_vat_ly_tao_hung_thu_hoc_tap_cho_hoc_si.doc

Nội dung tài liệu: Báo cáo Chuyên đề môn Vật lý - Tạo hứng thú học tập cho học sinh trong giảng dạy Vật lý ở trường THCS - Năm học 2014-2015 - Lê Đức Năm

  1. B. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ I>. Cơ sở lí luận: 1). Cơ sở pháp lý: - Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 của Ban Chấp Hành trung ương khoá VIII về những giải pháp chủ yếu trong giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ : ‘‘Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học’’ “Tăng cường công tác giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, giáo dục thể chất, chăm sóc sức khoẻ và giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh ” - Theo hướng dẫn xây dựng kế hoạch năm học 2014-2015 của các cấp lãnh, trong đó một trong những nhiệm vụ trọng tâm đã chỉ rõ đó là xây dựng các chuyên đề bám chuẩn kiến thức kĩ năng nhằm “phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của HS”. “Ứng dụng CNTT trong giảng dạy , sử dụng triệt để đồ dùng dạy học , tăng cường tự làm đồ dùng dạy học có hiệu quả trong giảng dạy...” - Sách giáo khoa vật lí THCS được cấu trúc theo kiểu đường tròn đồng tâm , có hệ thống câu lệnh nhằm định hướng học sinh tích cực , chủ động , tự học ( lớp 6 cơ - nhiệt có các câu lệnh chủ yếu dạng điền khuyết ; lớp 7 : quang học , âm học , điện học câu lệnh điền khuyết giảm dần ; lớp 8 : cơ học – nhiệt học ; lớp 9 điện học , điện từ học , quang học , năng lượng thì câu hỏi ở dạng hoàn chỉnh không có điền khuyết) 2). Cơ sở thực tiễn: Hiện nay, do tác động của cơ chế thị trường , không riêng gì một trường học nào, một địa phương nào , hiện tượng học sinh ham chơi, lười học đang khiến mỗi chúng ta cảm thấy lo lắng , bất an . Tính tự giác nghiên cứu , học tập ở một số bộ phận học sinh có chiều hướng giảm sút , thay vào đó là lối sống hưởng thụ và tính ỷ lại .Vì vậy, mỗi chúng ta luôn phải tích cực hóa các hoạt động dạy học nhằm tạo môi trường học tập “vui mà học ”. Từ đó tạo hứng thú học tập cho học sinh một cách tự nhiên, không gò bó. Với tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng dạy học , góp phần đào tạo thế hệ trẻ “chăm ngoan, học giỏi , tích cực , sáng tạo ” là “hạt giống” trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước . Điều này phải được hình thành trong một quá trình lâu dài và phải bắt đầu ngay từ tuổi ấu thơ. Bỡi lẽ các em sau này sẽ là những người chủ tương lai của đất nước. II>. Thực trạng về dạy và học môn vật lí ở trường THCS Đại Lào Đối với môn khoa học thực nghiệm như Vật lí, có thể nói: “Trăm nghe không bằng một thấy; trăm thấy không bằng một làm”. Nếu không có sự trải nghiệm thực tế thì sự lĩnh hội kiến thức không thể sâu sắc và bền chặt được. Do đó phải tạo NĂM HỌC 2014 – 2015 3
  2. điều kiện cho học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức thông qua hoạt động thực nghiệm và cao hơn nữa, cho học sinh tập dượt giải quyết một số vấn đề vật lí trong thực tế. a) Thuận lợi: - Ngày nay, chúng ta đang đang sống , học tập, làm việc dưới một môi trường tương đối hiện đại ( CNTT phát triển mạnh mẽ , người học, người dạy có thể khai thác các nội dung chương trình , kiến thức liên quan đến dạy và học một cách nhanh chóng qua các trang Web hoặc trường học ảo) - Các cấp lãnh đạo thường xuyên chỉ đạo sát sao bằng các văn bản, Nghị quyết, quyết định về việc tích cực hóa các hoạt động dạy học. - Các thầy cô là lực lượng trẻ , nhiệt tình, năng nỗ , luôn tìm tòi, sáng tạo trong việc cải tiến phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học. - Tất cả các giáo viên đều được tập huấn thường xuyên, định kỳ về đổi mới phương pháp theo hướng “ chủ động, sáng tạo nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh , lấy học sinh làm trung tâm”. - Nhà trường đã chú trọng đầu tư về trang thiết bị CNTT và tạo điều kiện thuận lợi nhất nhằm góp phần hỗ trợ cho giáo viên trong việc linh động nâng cao chất lượng bộ môn và chất lượng đại trà. - Từ các cấp học mầm non, tiểu học , các em học sinh đã được giáo dục cơ bản về tính tự giác trong học tập, lao động. b) .Khó khăn: - Bài học đã có chủ trương chung, tuy nhiên quá trình thực hiện về chuẩn kiến thức kĩ năng, thời gian dạy, chương trình dạy bị khống chế theo khuôn mẫu nên việc linh động của người dạy và người học vẫn bị gò bó , trói buộc bởi không gian, thời gian trong một tiết và trong một lớp học - Nội dung môn vật lý không có bài cho học sinh tham quan, thực tế nên việc tạo hướng thú học tập bộ môn bằng những kiến thức lí thuyết và thí nghiệm trong khuôn khổ phòng thí nghiệm là hết sức khó khăn “trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một làm”. - Một số thầy cô còn băn khoăn, lúng túng chưa mạnh dạn chủ động, đôi khi còn mâu thuẫn nội tại: muốn học sinh tích cực , chủ động nhưng lại không thể tạo ra môi trường vui vẻ, sôi nổi ( trong tiết thao giảng , khi tôi chuyển hình thức kiểm tra truyền thống sang dạng rung chuông vàng nhằm tạo không khí học tập sôi động , kích thích hứng thú học tập cho học sinh thì có ý kiến góp ý rằng: “làm như thế gây ồn lớp”, “làm như thế không lấy điểm được” ) - Cuộc sống ngày càng tốt hơn về điều kiện hưởng thụ nên tính tự giác , sáng tạo ở nhiều học sinh bị giảm sút do thói quen hưởng thụ. - Vì điều kiện khống chế bộ môn nên số đông học sinh chủ yếu tập trung vào học kiến thức môn cơ bản do đó thời gian nghiên cứu tìm tòi khoa học bị hạn chế. - Thói quen tìm tòi , sáng tạo nghiên cứu khoa học ở số đông học sinh chưa có nên ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập môn khoa học ứng dụng. NĂM HỌC 2014 – 2015 4
  3. III>. Một số giải pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh trong tiết dạy vật lí ở trường THCS: 1) Kích thích hứng thú và chú ý của học sinh đối với kiến thức mới: Kinh nghiệm cho thấy rằng, để hình thành phát triển hứng thú nhận thức của học sinh, cần có các điều kiện sau đây: 2) Tiến hành dạy học ở mức độ thích hợp nhất đối với trình độ phát triển của HS. Một nội dung quá dễ hoặc quá khó đều không gây được hứng thú . Cần biết dẫn dắt để HS luôn luôn tìm thấy cái mới, có thể tự lực tìm thấy kiến thức, cảm thấy mình mỗi ngày một trưởng thành. 3) Phát huy tối đa hoạt động tư duy tích cực của HS. Tốt nhất là tổ chức những tình huống có vấn đề đòi hỏi phải dự đoán, nêu giả thiết, tranh luận giữa những ý kiến trái ngược. 4) Tạo ra không khí thuận lợi cho lớp học, làm cho HS thích thú được đến lớp, mong đợi đến giờ học. Muốn thế, phải tạo ra sự giao tiếp thuận lợi giữa thầy và trò, giữa trò với trò. Đây là một trong những yếu tố quan trọng của việc xây dựng môi trường thân thiện trong trường học, tác nhân quan trọng cho hoạt động tích cực. Bằng trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của mình, GV tạo được uy tín cao. Bằng tác phong gần gũi thân mật, GV chiếm được sự tin cậy của HS. Bằng cách tổ chức và điều khiển hợp lí các hoạt động của từng cá nhân và tập thể HS, GV sẽ tạo được hứng thú cho cả lớp và niềm vui học tập của từng HS. Cơ sở lí luận của sự chú ý đối với cái mới là phản xạ dò tìm, theo lệ thường mọi cái mới chưa được biết đến đều là hấp dẫn. Ví dụ: Khi dạy bài “Sự nở vì nhiệt của chất khí”. Trước khi vào bài mới , giáo viên dùng quả bóng bàn bị bóp méo cho học sinh xem rồi đem thả vào nước nóng và đố các em quả bóng có phồng tròn lại như cũ không? Đương nhiên có một số học sinh trả lời có và một số khác trả lời không. Vì vậy giáo viên đã tạo ra được tình huống có vấn đề để hướng các em vào bài một cách say mê và hứng thú học tập. 5) Sử dụng hệ thống bài tập câu hỏi (định tính), các thí nghiệm nêu vấn đề, đặt vấn đề để tạo ra các tình huống có vấn đề. Hoặc từ các ví dụ lấy trong thực tế lao động sản xuất, đời sống hằng ngày Hệ thống câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi về cái chưa biết để kích thích tính hứng thú và tìm tòi của học sinh. Vì học sinh là nhà nghiên cứu tìm cách giải quyết vấn đề học tập từ các tình huống có vấn đề. Còn giáo viên là người dẫn đường và tổ chức hoạt động tìm tòi của học sinh, giúp học sinh đánh giá các giả thuyết. Quá trình giải quyết vấn đề bao gồm các khâu chủ yếu sau: + Hiểu rõ vấn đề + Xác định phương hướng giải quyết ( phạm vi kiến thức cần tìm kiếm ). Nêu giả thuyết. + Kiểm tra sự đúng đắn của giả thuyết ( bằng lí luận, thực nghiệm ). Xác nhận giả thuyết đúng. + Giáo viên chỉnh lí bổ sung giả thuyết đúng và chỉ ra kiến thức mới cần lĩnh hội. NĂM HỌC 2014 – 2015 5
  4. 6) Sử dụng bài giảng điện tử Bài giảng điện tử là phương tiện hỗ trợ cho giáo viên (GV), giúp bài giảng sinh động hơn, học sinh (HS) hứng thú học tập và dễ dàng tiếp thu bài. Vì vậy, để giúp HS khắc sâu kiến thức, kích thích nguồn cảm hứng học tập, khi giảng dạy GV cần phải kết hợp hài hòa giữa màn hình với lời giảng và giữa màn hình với ghi bảng sao cho linh hoạt uyển chuyển. Bên cạnh đó, GV phải thật sự có ý thức học hỏi, khai thác và sử dụng có chọn lọc những tư liệu quý. không làm cho bài giảng bị loãng và mất tập trung ở học sinh do hiệu ứng và hình ảnh không phù hợp. 7)Tạo kịch tính trong giờ học Thay vì kiểm tra , giảng dạy theo tuần tự bình thường, chúng ta có thể biến kiểm tra miệng sang đố vui hoặc rung chuông vàng , hoặc biến tiết học thành một vở kịch( nếu có đủ thời gian và phù hợp) với những hình ảnh, tình huống sống động, khiến HS quên cả giờ ra chơi. 8) Làm thí nghiệm bằng những đồ dùng tự làm nhằm chứng tỏ cho các em thấy nó không khó đến mức chúng ta không làm được. Từ đó tạo niềm tin và hứng thú học tập bộ môn cho các em. Chẳng hạn, ngoài những thí nghiệm mà sách giáo khoa giới thiệu và có trong phòng thiết bị, chúng ta có thể tự làm và hướng dẫn học sinh cùng làm một số đồ dùng thí nghiệm đơn giản nhưng vẫn đảm bảo tính khoa học và tính chính xác . Ví dụ : Lớp 6: Thí nghiệm dụng cụ đo thể tích, đo chiều dài, đo khối lượng , thí nghiệm lực kế , nhiệt kế , sự co , giản vì nhiệt của các chất , chứng minh sự bay hơi , sự ngưng tụ, sự nóng chảy , sự đông đặc. Thí nghiệm chứng minh công dụng của đòn bẩy, ròng rọc, mặt phẳng nghiêng. Lớp 7: Thí nghiệm : nhận biết ánh sáng, định luật phản xạ ánh sáng, gương phẳng, gương cầu lồi, gương cầu lõm , sự truyền âm trong các môi trường , phản xạ âm , tiếng vang , hiện tượng nhiễm điện do cọ xát, hai loại điện tích , nguồn điện. Lớp 8: Thí nghiệm quán tính , lực ma sát , lực đàn hồi , áp suất , sự truyền nhiệt định luật về công . Lớp 9: Thí nghiệm sự phụ thuộc của điện trở vào nhiều yếu tố khác nhau, từ phổ của nam châm , sự nhiễm từ của sắt và thép , nam châm điện , động cơ điện 1 chiều , hiện tượng cảm ứng điện từ , điều kiện xuất hiện dòng điện cảm ứng, dòng điện xoay chiều, máy phát điện xoay chiều , máy biến thế , kính lúp. 9) Phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh trong các giờ học thể hiện ở chỗ: - Kích thích được óc tò mò khoa học ham hiểu biết của các em : ( ví dụ: trong bài máy phát điện xoay chiều cho các em xem máy phát điện, do mình tạo ra) hoặc bằng cách tạo ra những tình huống có vấn đề với những câu hỏi thú vị gây hứng thú học tập, tạo nhu cầu nhận thức và có thể nghiên cứu được đối với học sinh. ( ví dụ: sau khi cho các em xem máy phát điện xoay chiều do mình tự làm GV có NĂM HỌC 2014 – 2015 6
  5. thể đặt câu hỏi : các em có muốn tự làm một chiếc để dùng không? Vậy bài học hôm nay sẽ phần nào giúp các em thực hiện được ý tưởng của mình.) - Thay đổi, phát triển hiểu biết, quan niệm ban đầu của học sinh để đạt được kiến thức mới. ( chẳng hạn ở bài máy phát điện xoay chiều sau khi học sinh nêu được điều kiện làm xuất hiện dòng điện cảm ứng chúng ta có thể đặt câu hỏi phát triển vào bài như sau: có thể dựa vào điều kiện xuất hiện dòng điện cảm ứng để tạo ra máy phát điện xoay chiều được không). - Tăng cường vấn đáp tìm tòi, tạo ra các cuộc tranh luận, thảo luận. Chẳng hạn Khi đặt câu hỏi chúng ta nên dừng một chút sau khi đặt câu hỏi. Nhận xét một cách khuyến khích đối với câu trả lời của học sinh,tạo điều kiện cho nhiều học sinh trả lời một câu hỏi. Tạo điều kiện để mỗi học sinh đều được trả lời câu hỏi ít nhất một lần trong giờ học(ví dụ : hình thức rung chuông vàng). Đưa ra những gợi ý nhỏ cho các câu trả lời hoặc đưa vào một phần nào đó trong câu trả lời để đặt tiếp câu hỏi. Yêu cầu học sinh giải thích câu trả lời của mình. Yêu cầu học sinh liên hệ câu trả lời với những kiến thức khác. 10). Sử dụng các thiết bị, phương tiện dạy học ( từ các đồ dùng dạy học rẻ tiền, tự làm đến các phương tiện hiện đại: Nghe – nhìn, máy tính ) theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh. GV cần phải tính toán đưa ra các kĩ năng vào hoạt động học tập thích hợp của học sinh theo một kế hoạch đã được chuẩn bị từ trước. không nên sử dụng một loại hoặc một dạng liên tục làm học sinh nhàm chán. 11) Tổ chức thí nghiệm: Thí nghiệm là một thành phần không thể thiếu, một biện pháp chủ yếu có hiệu quả góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ bộ môn. - Giúp học sinh nắm vững kiến thức cơ bản. - Rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, hướng nghiệp. - Góp phần phát triển năng lực tư duy, hình thành thế giới quan khoa học, lòng tin khoa học. *Các bước cơ bản cần có của thí nghiệm là: a) Chuẩn bị. - Phải thảo luận để học sinh hiểu rõ mục đích của thí nghiệm và từ đó tạo ra hứng thú học tập ở học sinh. - Cho học sinh tìm hiểu đầy đủ các chức năng của từng bộ phận có trong dụng cụ thí nghiệm được sử dụng. - Cho học sinh thảo luận về các bước tiến hành thí nghiệm, những yêu cầu cần quan sát hay đo đạc trong mỗi bước thí nghiệm này. Phải chuẩn bị các bảng ghi số liệu đo được hoặc báo cáo ghi các quan sát. - Xử lí các kết quả thu được từ thí nghiệm, rút ra mối quan hệ giữa các quan sát, giữa các số liệu đo, lập biểu đồ, đồ thị Từ đó phát biểu kết luận về sự vật, hiện tượng hoặc quá trình vật lí như là những kiến thức mới. NĂM HỌC 2014 – 2015 7
  6. b) Tổng kết: - Giáo viên gợi ý để học sinh phân tích kết quả thí nghiệm, giải thích thắc mắc nếu có và rút kinh nghiệm cách làm thí nghiệm . - Qua thí nghiệm học sinh có thể rút ra được kiến thức mình cần nắm hoặc giải thích được một số hiện tượng cần tìm hiểu trong thực tế. 12) Hướng dẫn học sinh giải bài tập vật lí: Công việc của giáo viên trong soạn giáo án để hướng dẫn học sinh làm bài tập bao gồm các công đoạn: a) Chọn bài tập và phân loại bài tập cho từng đối tượng và từng loại kỹ năng, năng lực cần phát triển. b) Hướng dẫn giải các bài tập sẽ ra cho học sinh c) Phân tích phương pháp giải bài tập theo trình tự. Tóm tắt đề bài bằng kí hiệu, hình vẽ. thiết lập mối quan hệ cần xác lập để giải bài tập, những kiến thức cơ bản cần sử dụng. Trình bày tính toán đến kết quả cuối cùng. d) Xác định phương án hướng dẫn học sinh giải bài tập, soạn các câu hỏi, lời hướng dẫn theo từng bước của tiến trình đã vạch ra để học sinh nắm được hướng đi của bài tập và giải đúng kết quả. e) Định hướng để học sinh tự giải được bài tập, GV yêu cầu học sinh ôn tập trước các kiến thức và kĩ năng cần vận dụng để giải các bài tập mà GV sẽ đề ra trong tiết bài tập. Gv lựa chọn các bài tập khác nhau để yêu cầu HS giải trong đó bao gồm: - Bài tập từ đơn giản đến phức tạp. - Bài tập định tính, các bài tập tính toán, các bài tập trắc nghiệm, bài tập thí nghiệm , thực hành. Về các vấn đề lí thuyết ( mức độ biết và hiểu ) và các bài tập tự luận thường là các bài tập tính toán. - Bài tập có nhiều cách giải khác nhau. - Bài tập làm tương tự và bài tập làm thêm cho các học sinh khá và giỏi. - Cuối mỗi bài GV tổng kết và nêu cách giải hợp lí và ngắn gọn nhất. - GV có thể chia thành các bước giải bài tập như sau: Bước 1: Tìm hiểu, tóm tắt đề bài. Bước 2: Tìm các công thức, kiến thức liên quan đến các đại lượng cần tìm. Bước 3: Vận dụng kiến thức, công thức đã học để giải bài toán. Bước 4: Kiểm tra, biện luận kết quả. - Ngoài ra, chúng ta có thể tạo các bài tập dưới dạng “trò chơi” để kích thích sự hứng thú của các em qua môn học, từ đó khắc sâu kiến thức cho học sinh . Tóm lại: Muốn chuẩn bị cho học sinh có tinh thần hứng thú và tích cực tiếp thu kiến thức mới trong giờ học cần có ba điều kiện: + Tạo tình huống có vấn đề, đặt vấn đề lôi cuốn suy nghĩ của học sinh và xác định mục đích chính của công việc sắp làm. + Xác định và chính xác hoá các phương hướng cơ bản của hoạt động trí não đưa đến việc giải quyết vấn đề làm rút ngắn thời gian tìm tòi để nhận thức, hợp lí hoá quá trình tư duy của học sinh. NĂM HỌC 2014 – 2015 8
  7. + Vạch ra và cũng cố những hướng dẫn cuối cùng cho việc nắm vững kiến thức trong tiến trình của giờ học. + Sử dụng phương tiện dạy học phù hợp, linh động trong tiết dạy. C. KẾT LUẬN Từ bài học rút ra từ quá trình áp dụng các phương pháp đã và đang làm, bản thân tôi nhận thấy muốn phát huy tính hứng thú, tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh thì người dạy cần linh động , sáng tạo trong việc soạn, giảng làm và sử dụng trang thiết bị dạy học .Luôn học tập ,đổi mới phương pháp đối với tình hình cụ thể của từng lớp, làm thêm các đồ dùng dạy học không có trong thiết bị phục vụ cho tiết dạy để nội dung tiếp thu bài của HS thêm sinh động và phong phú hơn. D. KIẾN NGHỊ , ĐỀ XUẤT - Đối với các câp quản lý giáo dục: Từng bước mua sắm , sửa chữa cấp thêm các thiết bị dạy học hiện đại hơn nữa nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc nâng cao hiệu quả dạy học. - Đối với giáo viên: tăng cường học tập , tìm tòi sáng tạo , linh động trong việc soạn giảng. Ngoài việc sử dụng triệt để phương tiện hiện, mỗi chúng ta cần linh động , chủ động tạo ra đồ dùng tương tự phù hợp với điều kiện giảng dạy của nhà trường và lớp học. E. GIÁO ÁN MINH HOẠ Tiết 40 BÀI 34 MÁY PHÁT ĐIỆN XOAY CHIỀU NĂM HỌC 2014 – 2015 9
  8. VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO - Tài liệu đổi mới phương pháp dạy học trong giảng dạy vật lý THCS trên báo giáo dục thời đại - Sgk, SGV , chuẩn kiến thức kỹ năng vật lý THCS Đại Lào ngày 20/12/2014 Giáo viên viết chuyên đề: Lê Đức Năm NĂM HỌC 2014 – 2015 10