Giáo án môn Ngữ Văn Lớp 7 - Bài 1: Tiếng nói của vạn vật (Ôn tập)
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án môn Ngữ Văn Lớp 7 - Bài 1: Tiếng nói của vạn vật (Ôn tập)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
giao_an_mon_ngu_van_lop_7_bai_1_tieng_noi_cua_van_vat_on_tap.docx
Nội dung tài liệu: Giáo án môn Ngữ Văn Lớp 7 - Bài 1: Tiếng nói của vạn vật (Ôn tập)
- - Phó từ mãi thực hiện chức năng bổ sung cho động từ “rền rĩ” ý nghĩa: một cách kéo dài liên tục như không dứt - Phó từ vẫn, không thực hiện chức năng bổ sung cho động từ “thấy” ý nghĩa: biểu thị sự tiếp tục, tiếp diễn và phủ định đối với hành động được nêu ở động từ => Tất cả các phó từ trên làm cho câu văn trở nên rõ nghĩa hơn, cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết hơn cho người đọc. Câu 4 (trang 30, SGK Ngữ văn 7, tập 1) Phương pháp giải: Em tự do chia sẻ suy nghĩ của mình Lời giải chi tiết: Khi làm một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ, đó là: - Đặt nhan đề phù hợp với nội dung - Bài thơ sử dụng chủ yếu vần chân hoặc vần lưng - Cách ngắt nhịp 2/2 cho thơ bốn chữ hoặc 3/2, 2/3 cho thơ năm chữ - Bài thơ thể hiện cách nhìn, cách cảm nhận của người viết về thiên nhiên, cuộc sống. Câu 5 (trang 30, SGK Ngữ văn 7, tập 1) Phương pháp giải: Em nhớ lại một bài thơ bốn chữ mà em yêu thích và viết đoạn văn khoảng 200 chữ chia sẻ cảm xúc của mình. Lời giải chi tiết: Bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên là một bài thơ chứa đầy hàm súc, là sự tiếc nuối của tác giả về một nền văn học đã từng rất rực rỡ. Ở hai khổ đầu, tác giả đã tái hiện lại không khí ngày tết xưa khi ông đồ còn được trọng dụng. Tết đến xuân về, hoa đào đua nhau khoe sắc thắm, phố phường đông vui, tấp nập và ông đồ xuất hiện bên hè phố bán câu đối để mọi người trưng trong nhà như một văn hóa không thể thiếu ngày đầu năm mới. Những nét chữ thanh thoát như phượng múa rồng bay, gửi gắm cả tâm hồn và tấm lòng người viết. Thế nhưng theo thời gian, phong tục treo câu đối ngày Tết không còn được ưa chuộng. Từ “nhưng” như nốt trầm trong khúc ca ngày xuân, cho thấy sự thay đổi trong bước đi chầm chậm của thời gian. Người tri âm xưa nay đã là khách qua đường. Niềm vui nhỏ nhoi của ông đồ là được mang nét chữ của mình đem lại chút vui cho mọi người trong dịp tết đến xuân về nay đã không còn. Nỗi buồn của lòng người khiến những vật vô tri vô giác như giấy đỏ, bút nghiên cũng thấm thía nỗi xót xa. Hình ảnh ông đồ xưa vốn gắn với nét đẹp truyền thống về nền văn hóa nho học, nay dần bị lãng quên” Lá vàng bay trên giấy/ Ngoài trời mưa bụi bay”. Ông vẫn ngồi đấy nhưng chẳng mấy ai còn để ý, lá vàng rơi giữa ngày xuân trên trang giấy nhạt phai như dấu chấm hết cho sự sinh sôi. Hạt mưa bụi nhạt nhòa bay trong cái se lạnh như khóc thương, tiễn biệt cho một thời đại đang dần trôi vào dĩ vãng. Ta như cảm nhận được qua tứ thơ là tâm trạng của thi nhân, phảng phất một nỗi xót thương, nỗi niềm hoài cổ nhớ tiếc của nhà thơ cho một thời đã qua. Và câu hỏi cuối bài thơ như lời tự vấn cũng là hỏi người, hỏi vọng về quá khứ với bao ngậm ngùi “Những người muôn năm cũ/Hồn ở đâu bây giờ?”. Ông đồ vắng bóng không chỉ khép lại một thời đại của quá khứ, đó còn là sự mai một truyền thống văn hóa tốt
- đẹp của dân tộc. Bài thơ đã chạm đến những rung cảm của lòng người,để lại những suy ngẫm sâu sắc với mỗi người. Câu 6 (trang 30, SGK Ngữ văn 7, tập 1) Phương pháp giải: Em nêu suy nghĩ của mình. Lời giải chi tiết: Khi tóm tắt ý chính do người khác trình bày ta nên dùng từ khóa, các kí hiệu và sơ đồ vì trình bày như vậy thể hiện sự khoa học, súc tích giúp dễ theo dõi, dễ hiểu. Câu 7 (trang 30, SGK Ngữ văn 7, tập 1) Câu hỏi lớn của bài 1. Phương pháp giải: Nêu quan điểm, cảm nhận của cá nhân em. Lời giải chi tiết: Việc quan sát, lắng nghe, cảm nhận giới tự nhiên có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống của chúng ta. Vì quan sát, lắng nghe, cảm nhận thế giới tự nhiên giúp xoa dịu tâm hồn, khơi dậy cảm xúc và trở nên tinh tế, nhạy bén hơn RÚT KINH NGHIỆM TIẾT DẠY Thời lượng Phương pháp Nội dung Chất lượng