Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học Tiếng Việt cho học sinh Lớp 1 theo Chương trình GDPT 2018 - Phạm Thị Phan

pdf 21 trang Minh Sáng 24/09/2025 290
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học Tiếng Việt cho học sinh Lớp 1 theo Chương trình GDPT 2018 - Phạm Thị Phan", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_tao_hung_thu_hoc_tieng_viet_cho_hoc_si.pdf

Nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học Tiếng Việt cho học sinh Lớp 1 theo Chương trình GDPT 2018 - Phạm Thị Phan

  1. 3 Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học Tiếng Việt cho học sinh lớp Một theo Chương trình GDPT 2018 nằm gục xuống bàn. Từ việc học sinh không hứng thú học Tiếng việt dẫn đến giờ học trở nên trầm lắng, căng thẳng.Tối đến có nhiều phụ huynh gọi điện phàn nàn với tôi: “cháu không thích học Tiếng Việt, chỉ thích học Toán. Cứ nhắc đến đọc bài, viết bài là cháu khóc”. Tôi cảm thấy rất lo lắng. Trong đầu tôi lúc này đặt ra câu hỏi: Tại sao lớp học trở nên như vậy, tại sao các em không có hứng thú học môn Tiếng Việt mà khi học những môn học khác các em lại rất hào hứng, phải chăng phương pháp dạy môn Tiếng Việt của tôi chưa phù hợp, chưa lôi cuốn hay bài giảng chưa hấp dẫn. Tôi đã tìm hiểu nguyên nhân và tôi cũng thấy rằng: Thứ nhất mình chưa đổi mới phương pháp dạy học, thứ hai chưa biết vận dụng linh hoạt các hình thức và phương tiện dạy học phù hợp. Đó chính là những nguyên nhân gây ra làm lớp học trầm lắng chưa gây hứng thú cho học sinh. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Nghiên cứu thực trạng của việc rèn đọc cho học sinh cho học sinh lớp 1 trường tiểu học nơi tôi đang công tác, từ đó tìm ra những biện pháp tốt nhất giúp học sinh đọc đúng, đọc to đồng thời góp phần nâng cao chất lượng giáo dục chung của nhà trường. - Giúp giáo viên có những phương pháp dạy học hiệu quả nhất để phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh lớp 1 bậc tiểu học nói chung và của Trường Tiểu học Tu Tra nói riêng. - Truyền tải được toàn bộ vấn đề đã nghiên cứu đến với đối tượng học sinh. Giúp học sinh lĩnh hội được một cách chủ động sáng tạo trong suốt quá trình học tập. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU - Sách Tiếng Việt 1. - Sách giáo viên Tiếng Việt 1 . - Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học - Tư liệu tham khảo - Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 1 năm học 2022 – 2023. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Người thực hiện: Phạm Thị Phan Trường Tiểu học Tu Tra
  2. 4 Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học Tiếng Việt cho học sinh lớp Một theo Chương trình GDPT 2018 1. Phương pháp quan sát Quan sát cách đọc của từng học sinh trong lớp để đưa ra biện pháp phù hợp trong quá trình dạy đọc . 2. Phương pháp Luyện tập – Thực hành Là phương pháp hướng dẫn học sinh rèn luyện kĩ năng đọc để học sinh có thể phát triển tốt những kĩ năng của bản thân. 3. Phương pháp so sánh Để biết kết quả sau thời gian thực hiện giải pháp V. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU - Qua thực tế giảng dạy và nghiên cứu bắt đầu từ tháng 09 năm 2022 đến tháng 04 năm 2023 B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU I. Những nội dung lý luận có liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu. Đối với học sinh lớp 1, nội dung của môn Tiếng Việt tập trung hình thành những cơ sở ban đầu cho việc học đọc, học viết, học nói, học nghe; định hướng cho việc học nghe, học nói dựa trên vốn Tiếng Việt mà trẻ đã có. Các bài học ở giai đoạn này chủ yếu là bài học thực hành, được thấm vào học sinh một cách tự nhiên qua các bài học thực tế. Ví dụ, học âm “e”, sau đó viết con chữ “e”. Những tri thức về âm – chữ cái, về tiếng (âm tiết) – chữ, về thanh điệu – dấu ghi thanh đều được học qua những bài dạy chữ. Những tri thức về câu trong đoạn hội thoại (câu hỏi, đáp và dấu câu) cũng không được dạy qua bài lý thuyết mà học sinh được hình dung cụ thể trong một văn bản cụ thể. Ở giai đoạn này, trẻ sẽ nhận diện được và sử dụng được các đơn vị của Tiếng Việt, các quy tắc sử dụng Tiếng Việt trong lúc đọc, viết, nghe, nói. Vậy nên, việc học Tiếng Việt ở bậc tiểu học sẽ tạo nền tảng cho trẻ trong việc phát triển tư duy ngôn ngữ, biểu hiện qua việc trẻ đọc thông thạo và hiểu đúng ý nghĩa một văn bản ngắn; viết rõ ràng, đúng chính tả; nghe chủ động; nói chủ động, rành mạch. Người thực hiện: Phạm Thị Phan Trường Tiểu học Tu Tra
  3. 5 Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học Tiếng Việt cho học sinh lớp Một theo Chương trình GDPT 2018 Trong quá trình thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018, yêu cầu của giáo dục đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt lớp 1 chú trọng hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh. Đổi mới phương pháp dạy học Tiếng Việt cần thực hiện dạy học phù hợp với tiến trình nhận thức của học sinh (đi từ cụ thể đến trừu tượng, từ dễ đến khó); Quán triệt tinh thần “lấy người học làm trung tâm”, chú ý nhu cầu, năng lực nhận thức, cách thức học tập khác nhau của từng cá nhân học sinh; tổ chức quá trình dạy học theo hướng kiến tạo, trong đó học sinh được tham gia trực tiếp vào quá trình hình thành, tiếp thu kiến thức, kĩ năng từ các trò chơi học tập là mục tiêu của việc vận dụng phương pháp này vào quá trình dạy học Tiếng Việt lớp 1. II.Thực trạng vấn đề. 1. Thuận lợi: ❖ Về phía giáo viên: - Với cương vị là một giáo viên Tiểu học, ham học hỏi, được tập huấn đầy đủ về Chương trình giáo dục phổ thông 2018, tôi tự tin có đủ sự sáng tạo, nhiệt huyết và sức trẻ để làm người bạn đồng hành, hướng dẫn cũng như truyền lửa đam mê cho các em trên con đường tiếp cận tri thức của nhân loại với bước chân đầu tiên là học tốt môn Tiếng Việt lớp 1. - Được giảng dạy trong một lớp học tích hợp với đầy đủ các cơ sở vật chất khang trang, tiện ích cũng là một trong những thuận lợi to lớn của tôi để phục vụ tốt cho công tác “trồng người”: phòng học được trang bị màn hình cảm ứng hiện đại, hệ thống đèn , quạt, đảm bảo sức khỏe cũng như tinh thần học tập của học sinh. ❖ Về phía học sinh: - Lễ phép, vâng lời, phần lớn chịu hợp tác với giáo viên. - Học sinh được trang bị đầy đủ sách giáo khoa cũng như bộ đồ dùng học Tiếng Việt. - Thích khám phá cái mới, dễ dàng bị hấp dẫn bởi các hoạt động mới lạ. ❖ Về phía phụ huynh: Người thực hiện: Phạm Thị Phan Trường Tiểu học Tu Tra
  4. 6 Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học Tiếng Việt cho học sinh lớp Một theo Chương trình GDPT 2018 - Các em học sinh của lớp sống cùng cha mẹ và người thân nên được quan tâm, yêu thương, chăm sóc và tạo điều kiện tốt nhất để các em chuyên tâm học tập. - Thường xuyên liên hệ với giáo viên trong việc giáo dục trẻ. 2. Khó khăn: ❖ Về phía giáo viên: - Việc chuẩn bị đồ dùng phục vụ cho các trò chơi học tập và kết hợp các phương pháp cũng như hình thức tổ chức cho một tiết học để xoá bỏ lối mòn đơn thuần truyền thụ kiến thức, mang lại cho học sinh hứng thú học tập thật sự tốn nhiều thời gian và công sức để mang lại hiệu quả như mong đợi. ❖ Về phía học sinh: - Nhiều bài trong chương trình Tiếng Việt lớp 1 dạy từ 2- 4 âm, vần làm cho một số học sinh không kịp nhớ bài đã qua bài mới, học sinh gặp nhiều áp lực nên chán nản. - Đôi khi chưa hợp tác cùng giáo viên, thụ động, ngại phát biểu, uể oải, thờ ơ, ít tập trung chú ý vào bài giảng. ❖ Về phía phụ huynh: - Phần lớn phụ huynh là người làm nông và phải lo việc mưu sinh nên khoán việc học tập của con em hoàn toàn cho giáo viên và chưa có chuyên môn để quan tâm, giúp đỡ các em kịp thời. - Đôi lúc phụ huynh quan tâm con em “quá mức” khiến cho học sinh càng trở nên thụ động và ỷ lại vào cha mẹ cũng như các bạn cùng nhóm, cùng lớp. III. Mô tả, phân tích các giải pháp Để khắc phục được các thực trạng đó, tôi đã đưa ra một số giải pháp và đã áp dụng vào thực tế, cụ thể như sau: Giải pháp thứ nhất: Tạo động cơ học tập. Mục đích của giải pháp này nhằm giúp các em nhận thức được rằng: việc học Tiếng việt sẽ đem lại nhiều lợi ích, sẽ giúp các em phát triển các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe. Người thực hiện: Phạm Thị Phan Trường Tiểu học Tu Tra
  5. 7 Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học Tiếng Việt cho học sinh lớp Một theo Chương trình GDPT 2018 Động cơ học tập được hình thành từ những cảm xúc, nhu cầu học tập của học sinh. Học sinh có động cơ học tập đúng đắn sẽ kích thích, thúc đẩy tính tích cực, tự giác chiếm lĩnh kiến thức. Đối với học sinh lớp 1, 2 thì động cơ học tập không có sẵn. Đa số các em đều chưa ý thức được mục đích của việc học Tiếng Việ. Vì thế trong quá trình học tập và rèn luyện, giáo viên là người dẫn dắt hình thành động cơ học Tiếng Việt cho các em. Theo quan sát của mình, tôi thấy có 2 nguyên nhân khiến các em chưa có động cơ học tập môn Tiếng Việt. Một là các em thực sự không thấy môn Tiếng Việt thú vị với mình hoặc không thấy ý nghĩa thực sự của việc học Tiếng Việt ngoại trừ việc vượt qua các bài kiểm tra bắt buộc. Hai là, các em có mong muốn học, có thấy được giá trị, thấy được ý nghĩa của việc học Tiếng Việt nhưng do khả năng nhận thức của từng trẻ khác nhau, nhiều em không theo được chương trình nên các em tự ti, thiếu Người thực hiện: Phạm Thị Phan Trường Tiểu học Tu Tra
  6. 8 Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học Tiếng Việt cho học sinh lớp Một theo Chương trình GDPT 2018 kiên trì. Đặc điểm chung của học sinh không có động cơ học Tiếng Việt là những học sinh học chưa tốt môn Tiếng Việt. Để tạo ra được động cơ học Tiếng Việt cho học sinh, ngay từ đầu năm học, tôi cho các em quan sát và nêu tên tất cả các quyển sách giáo khoa lớp 1,các quyển truyện cổ tích tôi sưu tầm được. Để khơi gợi tính tò mò của các em.Tôi khuyến khích các em xem quyển sách, quyển truyện này tên là gì? Nội dung bên trong có gì đặc biệt? Để biết được điều đó thì các em phải biết đọc, biết viết. Học môn Tiếng Việt sẽ giúp các em biết được điều đó.Sau khi các em biết được lợi ích của việc học Tiếng Việt các em học tập rất hào hứng. Người thực hiện: Phạm Thị Phan Trường Tiểu học Tu Tra
  7. 9 Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học Tiếng Việt cho học sinh lớp Một theo Chương trình GDPT 2018 Giải pháp thứ hai: Sử dụng trò chơi trong dạy học. Mục đích của giải pháp này là giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức được học, mở rộng vốn từ, khắc sâu kiến thức được học, nắm chắc âm vần biết vận dụng vào từng trường hợp cụ thể .Tạo môi trường để rèn luyện sự linh hoạt, nhạy bén, có thói quen phản ứng nhanh cho học sinh giúp các em mạnh dạn trước tập thể. Trò chơi học tập là trò chơi gắn liền với các hoạt động học tập và nội dung bài học giúp học sinh khai thác kinh nghiệm vốn có của bản thân để chơi và để học. Trong quá trình chơi trò chơi các em sẽ bộc lộ nhiều cảm xúc rất rõ ràng như: niềm vui khi thắng và buồn bã khi thua; vui mừng khi đồng đội hoàn thành nhiệm vụ, bản thân cảm thấy có lỗi khi không làm tốt nhiệm vụ của mình. Vì tập thể mà cố gắng hết khả năng để mang lại chiến thắng cho tổ, nhóm của mình. Đây cũng chính là đặc tính thi đua rất cao của trò chơi học tập. Đặc biệt, đối với môn Tiếng Việt thì trò chơi học tập càng có ý nghĩa quan trọng hơn trong việc tạo hứng thú học cho học sinh. Trong thực tế dạy học, giáo viên thường tổ chức trò chơi học tập để củng cố kiến thức, kỹ năng Tiếng Việt. Tuy nhiên việc tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi để hình thành kiến thức, kỹ năng mới là rất cần để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới. Trong quá trình dạy học Tiếng Việt, tôi dựa theo nội dung của từng chủ đề, từng bài và điều kiện thời gian trong mỗi tiết học để thiết kế trò chơi sao cho phù hợp. Trò chơi học tập có thể tổ chức ở cả 4 hoạt động. Đối với chương trình GDPT 2018 nói chung và đối với môn Tiếng Việt nói riêng thì trò chơi học tập là 1 phần không thể thiếu trong mỗi bài học. Trong giờ học Tiếng việt lớp 1 tôi thường tổ chức trò chơi ở 2 phần: phần khởi động và phần ghép chữ cái tạo vần,tạo tiếng mới. - Phần ôn và khởi động: Tôi thường cho học sinh chơi trò chơi ai nhanh hơn . Tôi mời 3 em lên chơi, ở dưới lớp làm trọng tài. Người thực hiện: Phạm Thị Phan Trường Tiểu học Tu Tra
  8. 10 Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học Tiếng Việt cho học sinh lớp Một theo Chương trình GDPT 2018 + Cách tiến hành: giáo viên viết một số âm, vần, tiếng đã học lên bảng, giáo viên sẽ đọc đến từ nào thì học sinh phải tìm từ đó, em nào tìm nhanh và đúng nhiều hơn thì em đó sẽ thắng cuộc. - Phần ghép chữ cái tạo vần và tiếng mới. + Cách tiến hành: Khi cả lớp cùng ghép chữ cái tạo tiếng,1 quản trò lên cho cả lớp chơi, quản trò gọi đến tên bạn nào thì bạn đó sẽ đọc tiếng mình vừa ghép được, sau đó cả lớp đánh vần lại tiếng đó.Trò chơi kết thúc khi quản trò gọi tên được 5 bạn. Trò chơi học tập được sử dụng như một phương pháp tổ chức cho học sinh khám phá và chiếm lĩnh nội dung học tập hoặc thực hành, luyện tập một kĩ năng nào đó trong chương trình môn học. Đây là một phương pháp có tác dụng hòa đồng sâu rộng và thu hút mức độ tập trung của học sinh mà ít có phương pháp nào sánh kịp. Hơn thế nữa, từ mối quan tâm và hoạt động của học sinh thể hiện qua tiết học có trò chơi sẽ làm cho học sinh thêm yêu thích môn học. Trò chơi giúp phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần và tri thức. Trò chơi làm học sinh phát triển về năng lực một cách tự nhiên, giúp các em trao đổi kinh nghiệm, tương tác lẫn nhau, từ đó các em tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng và tự nhiên hơn. Có thể tổ chức trò chơi theo các hình thức khác nhau như: thi đua giữa các đội, thi đua giữa các cá nhân và thi đua giữa các nhóm. Từ đó giúp các em tiếp thu bài học một cách tích cực, tự giác. Lược đồ quá trình dạy học vận dụng phương pháp dạy học trò chơi Tiếng Việt học. - Bước 1: Giới thiệu trò chơi + Nêu tên trò chơi: mỗi trò chơi cần một cái tên cụ thể, hấp dẫn để thu hút học sinh tham gia: Chèo thuyền, Đi chợ, Ai nhanh hơn, + Hướng dẫn học sinh chơi trò chơi. Người thực hiện: Phạm Thị Phan Trường Tiểu học Tu Tra
  9. 11 Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học Tiếng Việt cho học sinh lớp Một theo Chương trình GDPT 2018 Giáo viên phổ biến luật chơi một cách cụ thể, dễ hiểu để học sinh nắm bắt được cách chơi. Lưu ý cho học sinh một số lỗi các em có thể gặp phải khi tham gia trò chơi. Luật chơi: chính là tiêu chuẩn khách quan để đánh giá thống nhất các hành động chơi của mọi học sinh. Luật chơi có thể là một yêu cầu hoặc hai, ba yêu cầu mà mọi người chơi đều phải thực hiện. Việc xác định luật chơi phải căn cứ vào nội dung chơi và cách thức chơi của trò chơi. Luật chơi là yêu cầu bắt buộc hành động của mọi người chơi phải thực hiện thì mới đem lại kết quả chơi cuối cùng, ai có kết quả chơi nhanh và đúng thì người đó thắng cuộc. Hành động chơi (cách thức chơi) được giáo viên xác định sau khi đã vạch ra được mục đích của trò chơi, nội dung chơi, luật chơi. Cách chơi gồm hình thức tổ chức chơi; cách GV hướng dẫn và giải thích các hành động chơi giúp học sinh hiểu luật chơi và biết chơi thực sự; là hành vi và cách thức chơi cụ thể mà học sinh. - Bước 2: Chơi trò chơi Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi, có thể chơi theo ca nhân hoặc chơi theo nhóm nhỏ. Học sinh tham gia chơi theo đúng luật chơi đã phổ biến và chơi trong khoảng thời gian đã quy định. Giáo viên theo dõi cá nhân hoặc các nhóm chơi, có thể giúp đỡ những cá nhân gặp khó khăn. - Bước 3: Tổng kết trò chơi. Kết thúc và tổng kết kết quả chơi. Giáo viên nhận xét thái độ của học sinh tham gia chơi, khen ngợi những cá nhân (nhóm) chơi tốt, nhắc nhở những cá nhân ( nhóm) chơi chưa hiệu quả và tổng kết những tri thức được rút ra qua trò chơi, những sai lầm cần tránh. Tôi nhận ra rằng khi tổ chức trò chơi học sinh đều hứng thú với giờ học giúp các em có tâm thế thoải mái, bớt căng thẳng, tiếp thu bài tốt hơn và ngôn ngữ của các em ngày càng được trau dồi nhiều hơn. - Một số lưu ý khi tổ chức trò chơi: + Mỗi trò chơi nói chung cần gắn với 1 bài học, một chương cụ thể hoặc có Người thực hiện: Phạm Thị Phan Trường Tiểu học Tu Tra
  10. 12 Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học Tiếng Việt cho học sinh lớp Một theo Chương trình GDPT 2018 những tri thức cụ thể . + Dựa vào các hình thức, cách chơi, luật chơi của trò chơi, có thể thay đổi các trò chơi một cách linh hoạt. + Các trò chơi được tổ chức thường diễn ra trong thời gian từ 5 đến 10 phút. Việc chuẩn bị các trò chơi cần đơn giản, dễ làm, dễ kiếm. + Giáo viên tổ chức chơi cá nhân hay chơi theo nhóm phải hướng dẫn cách chơi một cách cụ thể, dễ hiểu. Sau đó tiến hành tổ chức cho học sinh chơi. Học sinh tự giám sát, đánh giá lẫn nhau. Ngoài ra, giáo viên phải có nhận xét, khích lệ học sinh, cũng không để thời gian chơi quá nhiều, ảnh hưởng đến giờ học. + Cần chọn những tình huống có vấn đề phù hợp với nội dung bài học, phù hợp trình độ của học sinh và phù hợp với việc tổ chức trò chơi. + Cần đặt tên trò chơi hấp dẫn, lôi cuốn, gây sự tò mò, phấn khích của học sinh những cũng phải ngắn gọn. + Thời gian chơi không nên quá lâu làm ảnh hưởng đến giờ học. + Khi phổ biến luật chơi và phân nhóm chơi cần rõ ràng, dễ hiểu. + Trong khi học sinh tham gia chơi cần bao quát tốt lớp học, tránh để gây mất trật tự, tranh cãi hoặc làm việc riêng. + Đánh giá trò chơi cần công bằng và theo những tiêu chí cụ thể, rõ ràng. + Ngoài ra, khi áp dụng các trò chơi chúng ta có thể tham khảo, sử dụng các phần mềm trên Internet, hiệu ứng hình ảnh, tiếng, lồng ghép, để trò chơi cũng như tiết học thêm sinh động, hấp dẫn và hứng thú hơn. Giải pháp 3: Động viên, khen ngợi học sinh kịp thời Khen ngợi là một phần thưởng tinh thần to lớn đối với học sinh tiểu học. Lời khen giúp các em tạo động lực và cải thiện kết quả học tập. Hiện nay, cả giáo viên và phụ huynh đều đánh giá cao sự khích lệ, động viên học sinh của thông tư 27. Việc động viên, khích lệ học sinh kịp thời sẽ giúp học sinh tự tin, nhân cách của học sinh ngày càng được kiện toàn, hành vi tích cực sẽ được phát huy. Ngược lại, phê bình, trách mắng, chỉ trích làm cho lòng tự trọng của trẻ bị tổn thương. Người thực hiện: Phạm Thị Phan Trường Tiểu học Tu Tra
  11. 13 Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú học Tiếng Việt cho học sinh lớp Một theo Chương trình GDPT 2018 Chính vì vậy hàng ngày thay vì trách phạt và chê bai học sinh tôi sẽ dành cho các em những lời khen ngợi chân thành khi các em có sự tiến bộ. Đối với những em đọc bài chưa tốt, chữ viết chưa đẹp, làm bài còn mắc lỗi tôi gợi ý để các em tìm ra lỗi sai trong bài và sửa lại dưới sự dẫn dắt của cô giáo. Ngoài nhận xét bằng lời, tôi dùng cử chỉ, ánh mắt, nụ cười hay những cái xoa đầu để khích lệ các em. Những em nào tiến bộ tôi có thể thưởng bông hoa, sticker hay thư khen cuối tuần. Khi các em được nhận những lời khen, thư khen của cô các em cảm thấy rất vui và hạnh phúc. Bên cạnh đó, tôi thường xuyên viết nhận xét vào vở hoặc sản phẩm học tập của học sinh để động viên, khích lệ các em. Giải pháp thứ tư: Sử dụng đồ dùng trực quan Như chúng ta đã biết đồ dùng trực quan ( tranh ảnh, đồ vật thật đều gây hứng thú cho học sinh trong giờ học. Vì đồ dùng trực quan giúp cho việc dạy học cụ thể hơn, vì vậy tăng khả năng tiếp thu kiến thức về các sự vật, hiện tượng. Ở Tiểu học phần lớn các em rất tò mò, rất hứng thú với đồ dùng trực quan. Chính vì vậy tôi đã sử dụng đồ dùng trực quan vào bài dạy để thu hút học sinh. Trong giờ dạy Tiếng việt lớp 1 có phần đọc từ, đọc đoạn văn, luyện nói, dạng bài ôn tập và kể chuyện có phần kể chuyện tôi sẽ sử dụng vật thật và tranh minh họa câu chuyện để các em tập trung và nhớ bài học lâu hơn. Người thực hiện: Phạm Thị Phan Trường Tiểu học Tu Tra